Nhiều kết quả tích cực
Với mục tiêu đẩy mạnh ứng dụng đo đạc và bản đồ trong quan trắc, giám sát TN&MT, trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ đã được triển khai thành công, đưa vào áp dụng kịp thời như: Nghiên cứu kết hợp công nghệ viễn thám và mô hình thủy lực xây dựng kịch bản tài nguyên nước các hồ chứa trong trường hợp sự cố; nghiên cứu ứng dụng ảnh vệ tinh Radar độ phân giải cao trong thành lập mô hình số độ cao và kiểm kê đảo, xây dựng mô hình số độ cao trên các đảo phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế biển và giám sát hiện tượng nước biển dâng; nghiên cứu ứng dụng dữ liệu đo đạc, bản đồ và viễn thám trong việc giám sát lớp phủ mặt đất, trong cảnh báo và phòng tránh thiên tai, đánh giá và phân vùng cảnh bảo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam; nghiên cứu ứng dụng đo trọng lực bằng máy FG-5X phục vụ điều tra, đánh giá nước dưới đất và một số khoáng sản rắn ở Việt Nam;...
Ảnh minh họa thiết bị không người lái (UAV) đang trong trạng thái hoạt động |
Theo ông Phan Ngọc Mai, Phó Cục trưởng Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ đo đạc và bản đồ trong thời gian qua đã đóng góp quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đo đạc và bản đồ đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ trong giai đoạn mới.
Cùng với đó, việc áp dụng các kết quả nghiên cứu đã góp phần đưa trình độ công nghệ về thu nhận, xử lý thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý và hệ thống thông tin địa lý nước ta phát triển tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, đảm bảo cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Bộc lộ những hạn chế
Mặc dù, đã đạt được những thành tích nhất định, nhưng nhìn chung hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ đo đạc và bản đồ của Bộ TN&MT còn một số hạn chế. Theo Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ Bộ TN&MT Trần Bình Trọng, nhân lực nghiên cứu khoa học trong đo đạc và bản đồ và công nghệ nói chung chưa thực sự đồng đều, còn thiếu cả về số lượng và yếu về chất lượng, đặc biệt là các cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia đầu ngành, chuyên gia giỏi đủ sức đảm nhiệm các nhiệm vụ nghiên cứu có tầm cấp Nhà nước và quốc tế.
Đội ngũ cán bộ trẻ làm công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ mặc dù có tăng về số lượng, có ưu điểm về khả năng nhanh nhậy tiếp cận công nghệ mới nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, năng lực đề xuất các nhiệm vụ giải quyết các vấn đề lớn, cấp thiết trong ngành đo đạc và bản đồ còn hạn chế.
Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao về đo đạc và bản đồ; chưa có chính sách thu hút, ưu đãi cán bộ nghiên cứu khoa học trong đo đạc và bản đồ. Một số chuyên ngành còn thiếu cán bộ “đầu đàn”.
Đó là chưa kể, kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học và công nghệ về đo đạc và bản đồ vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành cũng như yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; khó phát huy được nguồn lực công nghệ và con người một cách hiệu quả.
Ảnh minh họa |
Mặt khác, máy móc trang thiết bị hiện đại còn chưa đáp ứng đủ so với yêu cầu đặt ra, đầu tư còn chưa đồng bộ. Trình độ máy móc, trang thiết bị các đơn vị đo đạc và bản đồ thuộc Bộ TN&MT được đánh giá ở mức trung bình khá.
Ngoài ra, việc triển khai các định hướng nghiên cứu có quy mô lớn cần có sự phối hợp giữa nhiều tổ chức trong ngành còn hạn chế, các đề tài nghiên cứu trong khuôn khổ Nghị định thư với nước ngoài chưa được triển khai.
Cần định hướng cụ thể
Việc định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ đo đạc và bản đồ trong nước sẽ căn cứ vào xu hướng phát triển công nghệ trên thế giới và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong giai đoạn từ nay đến 2025, Vụ trưởng Vụ KH&CN Trần Bình Trọng đã chỉ ra một số giải pháp mang tính định hướng đó là: Nghiên cứu cơ sở khoa học để hoàn thiện thể chế, pháp luật về đo đạc bản đồ, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế kỹ thuật trong đo đạc và bản đồ.
|
Ảnh minh họa bề mặt trái đất |
Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu cơ bản về Trái đất bằng phương pháp đo đạc và bản đồ tiên tiến, hiện đại gồm: nghiên cứu chuyển dịch vỏ trái đất phục vụ dự báo, cảnh báo tai biến thiên nhiên và các hiện tượng cực đoan, nghiên cứu xây dựng mô hình địa động lực phần đất liền, vùng biển Việt Nam và lân cận.
Đồng thời, nghiên cứu phát triển ứng dụng chuyển giao công nghệ cao để phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ứng dụng các thành tựu mới của công nghệ ảnh số, công nghệ quét LiDAR, công nghệ viễn thám, GIS, GNSS…
Đặc biệt, đẩy mạnh nghiên cứu để xây dựng và phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia; nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu nhận, lưu trữ, cập nhật, tích hợp và chia sẻ dữ liệu không gian địa lý, phát triển ứng dụng, khai thác hiệu quả hạ tầng dữ liệu không gian địa lý.