|
Bộ trưởng Trần Hồng Hà giải trình với Quốc hội về đề xuất lùi thời gian thu cấp quyền khai thác khoáng sản. Ảnh: Quốc Khánh |
Giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho hay một trong những nguyên nhân Chính phủ chậm ban hành hai Nghị định trên là do giai đoạn 2011-2016 có tình trạng “quá tải” xây dựng văn bản pháp luật với số lượng gần 500 các văn bản dưới luật, nghị định và hơn 100 bộ luật.
Mặt khác chính sách thu tiền cấp quyền khai thác mỏ là một chính sách mới, lại được đưa ra trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, ngành khai thác khoáng sản bị ảnh hưởng, nhiều doanh nghiệp gặo khó khăn, bị phá sản nên thời điểm đó, Quốc hội cũng khẳng định là cần phải có chính sách để “khoan dân”.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng cho biết, theo quy định của Luật Khoáng sản, các thông số tính tiền là trữ lượng và chất lượng của từng mỏ, từng loại khoáng sản.
Trong khi đó, nội dung của gần 4000 giấy phép của các địa phương cấp trên phần lớn chỉ ghi công suất khai thác, không có trữ lượng, chất lượng khoáng sản và cách ghi cũng không thống nhất, phức tạp.
Do đó, khi hoàn thiện phương pháp tính, mức thu gặp khó khăn do phải mất nhiều thời gian, nguồn lực để khảo sát, thăm dò đánh giá lại trữ lượng cho các giấy phép không có trữ lượng (thường từ 2- 3 năm) nhằm bao quát được tính phức tạp, đa dạng của nhiều loại giấy phép.
|
Bộ trưởng Trần Hồng Hà giải trình với Quốc hội chiều 1/11/2019. Ảnh: Quốc Khánh |
“Có gần 4.000 giấy phép khai thác khoáng sản địa phương cấp là không có đánh giá trữ lượng trước đó. Luật Khoáng sản ban hành chính là thay đổi toàn bộ tư duy để quản lý. Đánh giá trữ lượng của một mỏ nhỏ cũng mất khoảng vài năm, như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) hiện nay có những mỏ vẫn chưa đánh giá xong trữ lượng” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà dẫn chứng.
Ngoài ra, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho hay thời điểm Bộ TN&MT tổ chức các hội nghị, hội đánh giá về chính sách để ban hành nghị định thì có nảy sinh vấn đề “thuế chồng thuế”, vì bản chất thu cấp quyền khai thác tài nguyên cũng là một loại thuế.
“Trong bối cảnh CPI đang rất cao. Một trong những mục tiêu của Quốc hội và Chính phủ là giảm các chi phí, đặc biệt các vấn đề liên quan đến sản phẩm thiết yếu như tài nguyên nước. Chính phủ hết sức quan tâm đến vấn đề để giảm CPI và đánh giá tác động. Chính phủ đã ba lần phải xem xét chính sách và thấy vào thời điểm nào để ban hành thì hợp lý...” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Bộ trưởng cũng khẳng định việc lùi thời hạn thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là hợp lý, bởi vì trong thực tế Luật Khoáng sản không quy định về hồi tố mà chỉ quy định từ khi luật này ban hành thì sau khi có đánh giá trữ lượng (thường mất khoảng 3 đến 5 năm).
“Bây giờ có lùi thời hạn thu thì dựa trên tổng trữ lượng và được phân kỳ ra thu lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Như vậy, nó không ảnh hưởng gì đến việc chúng ta lùi một, hai năm mà vẫn thu trên tổng số lượng đó. Tức là thu trước 2 năm và thu bây giờ thì vẫn dựa trên toàn bộ trữ lượng đánh giá. Chúng tôi sẽ có báo cáo Quốc hội từng dự án một để đánh giá xem có tổn thất, thất thoát không. Điều này tôi xin được báo cáo và đưa ra con số và đề nghị Quốc hội giám sát vấn đề này” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà giải thích.
Đối với tài nguyên nước, theo quy định của Luật Tài nguyên nước, các thông số tính tiền là chất lượng của nguồn nước, loại nguồn nước, điều kiện khai thác, quy mô, thời gian khai thác, mục đích sử dụng nước của từng công trình khai thác.
Trong khi đó, Luật quy định chỉ tính tiền đối với một số hoạt động khai thác tài nguyên nước có lợi thế như: thủy điện, khai thác nước để cấp cho một số hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ... nhưng không tính tiền đối với nước tưới cho nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt của nhân dân. Bộ trưởng cho rằng, nếu cho lùi thời hạn hay miễn tiền cấp quyền thì người dân sẽ được hưởng.
Bởi vì, khi xây dựng phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước mất nhiều thời gian để nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo đảm tính khả thi, tránh gây tác động lớn, nhất là tác động đến giá điện, giá nước sạch, trong bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế vĩ mô thiếu ổn định.
Về việc, nhà nước thiệt hại bao nhiêu khi lùi thời hạn thu tiền cấp quyền khai thác sản, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho hay theo Bộ TN&MT thống kê phần các mỏ còn lại phải thu tiền chiếm khoảng 8% (của 5000 giấy phép) và hoàn toàn có thể tính toán được số tiền không thu được trong thời gian chậm ban hành nghị định 2 năm 6 tháng. “Có thể nói, nếu lùi thời hạn khi Nghị định có hiệu lực là chúng ta không thất thoát...” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
KhươngTrung
Theo: baotainguyenvamoitruong.vn