Xác định được tầm quan trọng của nguồn nước đối với sự phát triển của quốc gia, những năm gần đây các chủ trương, chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên nước được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Luật Tài nguyên nước cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã được ban hành hoặc đang trong quá trình soạn thảo đều có những quy định nhằm bảo vệ các dòng sông một cách khá toàn diện và được thể hiện trong một số nội dung chủ yếu sau:
- Quản lý tài nguyên nước phải trên nguyên tắc tổng hợp, thống nhất giữa chất lượng và số lượng. Đồng thời, bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, bảo vệ chất lượng nước và các hệ sinh thái thủy sinh, hạn chế khắc phục ô nhiễm nguồn nước.
- Nghiêm cấm các hành vi đổ chất thải, rác thải, đổ hoặc làm rò rỉ các chất độc hại vào nguồn nước và các hành vi khác gây ô nhiễm nguồn nước; xả nước thải, đưa các chất thải vào vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt; xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào nguồn nước; xả khí thải độc hại trực tiếp vào nguồn nước; xả nước thải vào lòng đất thông qua các giếng khoan, giếng đào và các hình thức khác nhằm đưa nước thải vào trong lòng đất; gian lận trong việc xả nước thải; xả nước thải trái phép vào nguồn nước.
- Điều tra, hiện trạng xả nước thải, khí thải, chất thải vào nguồn nước; phân loại nguồn nước theo mức độ ô nhiễm; xác định khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước; đánh giá, cảnh báo, dự báo diễn biến bất thường về chất lượng nguồn nước là những hoạt động của điều tra cơ bản tài nguyên nước để thực hiện các nội dung về đánh giá tình hình ô nhiễm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước biển.
- Bảo vệ tài nguyên nước là một trong những thành phần của quy hoạch tài nguyên nước, bao gồm việc xác định các khu vực bị ô nhiễm; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; xác định phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm để bảo đảm chức năng của nguồn nước; xác định hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả nước thải vào nguồn nước.
- Các nguồn nước cần được thiết lập hành lang để bảo vệ để thực hiện các chức năng về bảo vệ sự ổn định của bờ và phòng, chống lấn chiếm đất ven nguồn nước; phòng, chống các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái nguồn nước; bảo vệ, bảo tồn và phát triển hệ sinh thái thủy sinh, các loài động, thực vật tư nhiên ven nguồn nước. Theo đó, trong hành lang bảo vệ nguồn nước không được xây mới hoặc mở rộng quy mô bệnh viện, cơ sở y tế điều trị bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất thải, cơ sở sản xuất hóa chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải nguy hại. Đối với cơ sở đang hoạt động thì phải có biện pháp xử lý, kiểm soát, giám sát chặt chẽ chất lượng nước thải, chất thải trước khi thải ra đất, nguồn nước; cơ sở đang hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước phải có giải pháp để khắc phục; trường hợp không khắc phục được thì bị đình chỉ hoạt động hoặc di dời theo quy định của pháp luật. Quy định này cũng đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 43/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về lập hành lang bảo vệ nguồn nước.
- Phải có phương án phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước khi xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu du lịch, vui chơi, giải trí tập trung, tuyến giao thông đường thủy, đường bộ, công trình ngầm, công trình cấp, thoát nước, công trình khai thác khoáng sản, nhà máy điện, khu chứa nước thải và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các công trình khác có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
- Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khai khoáng và các hoạt động sản xuất khác không được xả nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào nguồn nước; trường hợp sử dụng hóa chất độc hại thì phải có biện pháp bảo đảm an toàn, không được để rò rỉ, thất thoát dẫn đến gây ô nhiễm nguồn nước.
- Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước phải xây dựng phương án, trang bị các phương tiện, thiết bị cần thiết và thực hiện các biện pháp để kịp thời ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước do mình gây ra; đồng thời buộc các tổ chức, cá nhân gây ra sự cố ô nhiễm nguồn nước, ngoài việc chấp hành xử phạt vi phạm theo quy định của pháp luật còn có trách nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm nguồn nước trước mắt, cải thiện, phục hồi chất lượng nước về lâu dài và bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
- Hoạt động xả nước thải của các tổ chức, cá nhân được quản lý chặt chẽ, thông qua việc cấp giấy phép xả nước thải, trừ trường hợp xả nước thải với quy mô nhỏ và không chứa hóa chất độc hại, chất phóng xạ vào nguồn nước.
- Hoạt động cải tạo lòng, bờ, bãi sông, xây dựng công trình thủy, khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác trên sông, hồ không được gây sạt, lở, làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ và phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản. Đồng thời, quy định đối với những dòng sông, đoạn sông bị sạt, lở hoặc có nguy cơ bị sạt, lở bờ, bãi sông, cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước cấp tỉnh có trách nhiệm xác định nguyên nhân gây sạt, lở, đề xuất các giải pháp để ngăn ngừa, khắc phục và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, khoanh định khu vực cấm, khu vực tạm thời cấm khai thác cát, sỏi và các khoáng sản khác. Quy định này cũng đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số 23/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định việc cải thiện, phục hồi các dòng sông ô nhiễm là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian qua, chất lượng nguồn nước các lưu vực sông chính đã và đang dần được kiểm soát về mức độ gia tăng ô nhiễm, đặc biệt là các đoạn sông ô nhiễm nghiêm trọng mức độ ô nhiễm đang dần được cải thiện như sông Cầu tại tỉnh Thái Nguyên, sông Thị Vải tại tỉnh Đồng Nai, sông Đồng Nai tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương.
Để khắc phục, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước cho các dòng sông, Bộ đã đưa ra các giải pháp cấp bách trong công tác quản lý, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như:
- Thực hiện Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31/8/2016 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường, trong năm 2017, Bộ đã tập trung triển khai xây dựng trình Chính phủ phê duyệt Đề án kiểm soát đặc biệt đối với các cơ sở tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; xây dựng hệ thống tiêu chí về môi trường làm cơ sở lựa chọn, sàng lọc loại hình sản xuất và công nghệ sản xuất trong thu hút đầu tư, xem xét, phê duyệt các dự án đầu tư, đảm bảo không thu hút công nghệ sản xuất lạc hậu vào Việt Nam.
- Tập trung thanh tra, kiểm tra các đối tượng có lưu lượng nước thải từ 200 m3/ngày đêm trở lên trên phạm vi cả nước; rà soát đánh giá tác động môi trường, công trình, biện pháp bảo vệ môi trường của các dự án lớn, nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường; tổng điều tra, đánh giá, phân loại các nguồn thải trên phạm vi cả nước; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nguồn thải; lập danh mục các nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt để có giải pháp cải thiện, phục hồi.
- Tập trung đầu tư hệ thống giám sát các hoạt động xả nước thải vào nguồn nước theo hướng xã hội hóa việc quan trắc lưu lượng, chất lượng nước thải. Qua đó các cơ sở xả nước thải vào nguồn nước, các cơ sở khai thác tài nguyên nước sẽ phải tự đầu tư lắp đặt các thiết bị quan trắc tự động, phân tích chất lượng nước thải,... và kết nối vào hệ thống giám sát chung do Nhà nước đầu tư tạo thành một hệ thống thống nhất giữa Trung ương, địa phương và trên từng lưu vực sông. Đối với hệ thống quan trắc chất lượng nguồn nước, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai thực hiện mạng lưới quan trắc môi trường nước trên các lưu vực sông, đồng thời, tiếp tục đầu tư mới, nâng cấp các trạm quan trắc đế đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước từ cấp Trung ương đến địa phương. Bộ đang tập trung nguồn lực để đầu tư các trạm quan trắc chất lượng nguồn nước tự động kết hợp với sử dụng công nghệ thông tin để kịp thời, chủ động trong việc kiểm soát, xử lý, cũng như kịp thời dự báo, cảnh báo đến người dân khi có các vấn đề ô nhiễm môi trường nước xảy ra.
- Xử lý nghiêm đối với các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng, gây ô nhiễm nguồn nước. Công bố công khai các cơ sở xả nước thải gây ô nhiễm trên các phương tiện thông tin, truyền thông để tạo áp lực xã hội đối với hình ảnh của các doanh nghiệp.
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng để thu hút cộng đồng, các tổ chức, các doanh nghiệp tham gia vào việc bảo vệ nguồn nước. Đặc biệt, đề cao vai trò giám sát của người dân trong việc phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi, sự cố gây ô nhiễm nguồn nước ngay từ khi mới xuất hiện.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã được sửa đổi theo đó hướng đến việc kiểm soát chặt nguồn nước thải, nước thải xả ra môi trường phải đạt quy chuẩn.
Đối với nước thải công nghiệp, trong thời gian gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung nguồn lực quản lý, kiểm soát chặt chẽ loại hình nước thải công nghiệp, đặc biệt là nước thải phát sinh từ các Khu công nghiệp. Hiện nay, cả nước có 251 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có phát sinh chất thải (không tăng so với năm 2017). Hoạt động kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp đã có chuyển biến tích cực. Trên phạm vi cả nước, đã có 221/251 khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường, đạt khoảng 88% (tăng 8% so với năm 2017), trong đó các địa phương có số lượng khu công nghiệp lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh.. .tỷ lệ này đều đạt 100%. Đã có 121/251 khu công nghiệp lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục đạt tỷ lệ trên 42%. Nhìn chung, nhiều địa phương đã chú trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao, dự án có tỷ lệ đầu tư về môi trường lớn, một số địa phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình thu hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch. Đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy riêng lẻ, hầu hết đã và đang được kiểm soát chặt chẽ việc xả nước thải vào nguồn nước thông qua việc quản lý, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường và cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đặt mục tiêu trong vài năm tới sẽ kiểm soát được lượng nước thải công nghiệp, bao gồm nước thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề và các cơ sở sản xuất công nghiệp đơn lẻ trên toàn quốc.
Tuy nhiên, một thực tế thấy rằng, hiện nay còn chưa kiểm soát được đầy đủ, triệt để các hoạt động gây phát sinh ô nhiễm các dòng sông từ nước thải sinh hoạt, nước thải từ các làng nghề và ô nhiễm từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, hiện nay, rất nhiều hoạt động xả nước thải vào hệ thống công trình thủy lợi, đồng thời chính hoạt động tưới tiêu nông nghiệp trong hệ thống cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn (ví dụ như hệ thống sông Bắc Hưng Hải, hệ thống sông Nhuệ-Đáy). Do vậy, nguồn nước trong nhiều hệ thống công trình thủy lợi hiện nay bị ô nhiễm rất nghiêm trọng và đang hàng giờ xả một lượng lớn vào các nguồn nước sông, suối trên các lưu vực sông gây ô nhiễm nguồn nước trên diện rộng từ thượng lưu đến hạ lưu. Tuy nhiên, việc cấp giấy phép xả nước thải vào hệ thống công trình thủy lợi lại do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện theo pháp luật về thủy lợi. Như vậy, toàn bộ lượng nước thải xả vào hệ thống công trình thủy lợi, Bộ Tài nguyên và Môi trường không kiểm soát được trước khi chảy ra các sông, suối tác động đến chất lượng nguồn nước và các đối tượng khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông. Vấn đề này cũng là một trong những khó khăn cho công tác quản lý tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện nay.
Để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường đặt ra trong giai đoạn phát triển mới, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững, đồng thời để thống nhất, hoàn thiện lĩnh vực quản lý lĩnh vực tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang khẩn trương huy động nguồn lực để rà soát, sửa đổi Luật Tài nguyên nước và dự kiến trình Quốc hội xem xét vào năm 2023.
Thực hiện: Trung tâm Truyền thông TNMT