Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) do Bộ NN&PTNT ký kết cùng IBRD - với tư cách là Bên được ủy thác của Quỹ Đối tác Carbon Lâm nghiệp. ERPA nhằm chuyển nhượng lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn CO2 tương đương (CO2e) ở 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018 - 2025 cho FCPF, với tổng số tiền là 51,5 triệu USD. Địa bàn triển khai gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.
Theo Bộ NN&PTNT, việc chi trả được xác định sau khi IBRD tiến hành thẩm định kết quả theo từng kỳ báo cáo. Thẩm định xong kỳ báo cáo nào, chi trả cho kỳ báo cáo đó. Việt Nam không tạm ứng để thực hiện ERPA nên giảm thiểu được rủi ro đối với quá trình giải ngân. Điều này cũng cho thấy, kết quả thực hiện giảm phát thải từ rừng Bắc Trung Bộ trong 6 năm (2018 - 2024) chủ yếu là do nỗ lực của Việt Nam đầu tư cho các hoạt động REDD+ từ ngân sách Nhà nước, các dự án ODA và từ các nguồn lực xã hội hóa.
Tiềm năng giảm phát thải từ rừng của Việt Nam đạt khoảng 57 triệu tấn/năm. Vì vậy, nếu thương mại hóa được lượng giảm phát thải này sẽ có ý nghĩa lớn trong việc huy động nguồn lực hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Luật Lâm nghiệp tại khoản 3 Điều 61 đã quy định: “hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, 2 quản lý rừng bền vững, tăng trưởng xanh” là một loại dịch vụ môi trường rừng (DVMTR). Tuy vậy, loại DVMTR này chưa được quy định cụ thể về việc chuyển nhượng, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng, cơ chế hưởng lợi. Vì thế, chưa có cơ sở tách bạch giữa quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện đối với một số tài nguyên với quyền sở hữu, mua bán những lợi ích thu được từ khai thác, sử dụng những tài nguyên này của cá nhân, tổ chức được Nhà nước giao. Trong khi đó, điều kiện ERPA hiệu lực là phải đảm bảo việc chuyển nhượng kết quả giảm phát thải được thực hiện mà không có khiếu nại nào.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ NN&PTNT đã trình Chính phủ phê duyệt dự thảo Nghị định về chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính Thỏa thuận ERPA. Theo đó, nguồn thu từ ERPA là một loại DVMTR và được chuyển về hệ thống Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng để chi trả cho các chủ rừng, các đối tượng và hoạt động có đóng góp cho giảm phát thải thông qua hệ thống Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng các tỉnh.
Thực tế, diện tích rừng tự nhiên ở vùng Bắc Trung Bộ có 2,2 triệu hecta, tương đương 70% tổng diện tích rừng và 75% tổng trữ lượng rừng toàn vùng nên chỉ cần chuyển nhượng kết quả giảm phát thải từ rừng tự nhiên (rừng thuộc sở hữu toàn dân) là đã đảm bảo thực hiện ERPA. Để phù hợp với thực tiễn, Bộ NN&PTNT đề xuất Nhà nước là đại diện chủ sở hữu kết quả giảm phát thải từ rừng tự nhiên và giao cho Bộ quản lý, sử dụng kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ để thực hiện việc chuyển nhượng sang IBRD.
Theo dự thảo, có trên 70 nghìn chủ rừng sẽ hưởng lợi từ Thỏa thuận ERPA, bao gồm: 143 chủ rừng là tổ chức (Ban quản lý rừng đặc dụng, ban quản lý rừng phòng hộ, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và các tổ chức khác); gần 70 nghìn hộ gia đình và khoảng 950 cộng đồng dân cư tham gia quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên.
Nghị định sẽ quy định cụ thể chính sách về chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính ERPA, bao gồm các hoạt động: hỗ trợ các hoạt động tăng cường các điều kiện cần thiết để giảm phát thải ở cấp Trung ương và cấp địa phương; hoạt động đóng góp trực tiếp cho giảm phát thải như bảo vệ rừng tự nhiên, các biện pháp lâm sinh theo quy định hiện hành, được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hoạt động hỗ trợ phát triển sinh kế; hoạt động quản lý.
Nguồn tài chính hoàn toàn là từ nguồn thu từ ERPA và không sử dụng ngân sách Nhà nước. Điều này làm giảm áp lực phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác bảo vệ và phát triển rừng của vùng Bắc Trung Bộ. Trường hợp IBRD mua lượng giảm phát thải bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2 (nếu có) với đơn giá 5 USD/ tấn CO2 thì nguồn thu này còn có thể tăng thêm tối đa 25 triệu USD.
Việc thực hiện thành công ERPA sẽ chứng minh tiềm năng và triển vọng to lớn về nguồn thu này đối với ngành lâm nghiệp nước ta nói chung, làm cơ sở xây dựng thành chính sách để mở rộng áp dụng trên cả nước. Chi trả DVMTR đối với dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng; giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng là cơ hội để có thêm nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 9% đến năm 2030 (theo Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định NDC cập nhật của Việt Nam), góp phần thực hiện Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam, Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh gắn với phát triển bền vững, Cam kết phát thải ròng bằng “0”.
Theo Báo TNMT