Diễn đàn do Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam và Trung tâm Thông tin Năng lượng Việt Nam phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Viện Năng lượng (Bộ Công thương) đồng tổ chức, với chủ đề: “Hướng tới trung hòa các-bon - Cơ chế, chính sách, công nghệ, tài chính cho các dự án điện gió, điện mặt trời, điện khí”
Quyết tâm thực hiện cam kết giảm phát thải
Phát biểu tại duễn đàn, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050, trong đó sẽ cụ thể hóa mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào 2050 theo đúng những gì Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26).
Theo đó, để đưa phát thải ròng về “0”, lĩnh vực năng lượng lượng phải giảm ít nhất 32% vào năm 2030, giảm ít nhất 90% vào năm 2050 so với kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường của Việt Nam. Như vậy, việc thay thế điện than bằng các nguồn điện gió, điện mặt trời, điện khí và các nguồn điện ít phát thải khác là hướng đi bắt buộc.
Ngay từ bây giờ, Chính phủ cũng như các Bộ, ngành của Việt Nam đã vào cuộc với quyết tâm rất cao nhằm đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi, tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển hạ tầng BĐKH, phát triển năng lượng tái tạo.
Chia sẻ về dự thảo mới nhất của Quy hoạch điện 8 quốc gia đã được Bộ Công Thương trình Chính phủ, ông Hoàng Trọng Hiếu, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về phát triển điện lực cho biết, dự báo công suất điện cực đại năm 2025 của Việt Nam có thể đạt khoảng 59.300 – 61.400 MW; năm 2030 khoảng 86.500 – 93.300 MW; năm 2045 khoảng 155.000 – 189.900 MW.
Đây là con số rất lớn. Việc lựa chọn phương án cùng với triển khai thực hiện để có thể thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26 là hết sức khó khăn. Thách thức đến từ nhiều mặt: trong công tác quy hoạch, quy định pháp luât về đầu tư xây dựng co bản, công tác giải phóng mặt bằng, tài chính, cơ chế giá điện tái tạo… Để vượt qua, đòi hỏi sự nỗ lực của các nhà hoạch định chính sách, tham vấn từ các nhà khoa học và sự ủng hộ, tham gia của cộng đồng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực năng lượng.
Ông Vương Quốc Thắng- Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, công nghệ và Môi trường của Quốc hội, khẳng định: Quốc hội đang trong quá trình biến các cam kết của Việt Nam thành các Luật. Theo tinh thần Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị ngày 11/10/2020 về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, chúng ta đang xem xét xây dựng Luật để khuyến khích đầu tư xây dựng năng lượng, năng lượng tái tạo. Luật này sẽ góp phần giải quyết các bất cập phát sinh, không thống nhất, không cần thiết giữa các văn bản pháp luật cũng như hướng dẫn bổ sung các cơ chế mới.
Uỷ ban Khoa học, công nghệ và Môi trường đang nỗ lực bám sát các yêu cầu thực tiễn, lắng nghe các tâm tư, ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà đầu tư, các nhà thực thi chính sách về năng lượng, cá nhân… để tham mưu cho Quốc hội về những chính sách phù hợp, ban hành các luật nhằm tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch ngành năng lượng thành công, góp phần phát triển bền vững đất nước. Một số các Luật khác cũng cần được soạn thảo mới, sửa đổi nhằm khuyến khích sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng. Mở rộng hơn nữa việc phát thải ròng bằng 0 cần có những dự án lớn, đòi hỏi Quốc hội xem xét, phê duyệt.
Theo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), tổng công suất lắp đặt nguồn điện năng lượng tái tạo hiện đạt khoảng 20,7 GW, chiếm hơn 27% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện.
Kết quả thực tế năm 2021, sản lượng điện phát từ nguồn điện năng lượng tái tạo đạt khoảng 30 tỷ kWh. Nguồn điện này đã hỗ trợ tích cực cung cấp điện cho miền Bắc trong thời gian cao điểm, phụ tải tăng cao vào tháng 5, tháng 6/2021. Đồng thời, góp phần đảm bảo cung ứng điện cho cả giai đoạn 2021 – 2025.
Gỡ vướng để nắm bắt cơ hội đầu tư
Chia sẻ tại hội thảo, ông Tomaso Andreatta, Chủ tịch Tiểu ban Tăng Trưởng Xanh của Eurocham cho rằng, khu vực Châu Âu là những khu vực đi đầu trên thế giới trong việc giảm lượng khí thải carbon, đang tái cấu trúc nền kinh tế của mình để đáp ứng các mục tiêu đặt ra ở Glasgow và điều này có tác động đến các quốc gia có hoạt động xuất khẩu tới châu Âu. Tác động sẽ trở nên lớn hơn nhiều với sự ra đời của cơ chế điều chỉnh biên giới carbon và sự phê chuẩn hợp pháp của cơ chế phân loại đã được đưa ra bởi Ủy ban châu Âu, hạn chế việc cho vay của các ngân hàng EU đối với các công ty và quốc gia không có định hướng phát triển bền vững. Đây là một lý do để Việt Nam, một đối tác thương mại quan trọng của châu Âu, cần phải hành động ngay lập tức và hiệu quả hơn nữa.
Một trong những cải cách cần được ban hành sớm, đó là quy định cho phép các công nghệ mới có thể phát triển tự phát thay vì bị quản lý đến từng chi tiết cuối cùng. Đây là lý do tại sao Vinfast đang bán ô tô điện ở Mỹ nhưng lại không thể làm như vậy ở chính quốc gia của mình, vì không có luật nào cho phép họ làm điều đó.
Các luật cấp thiết khác là về các dự án lớn và tài chính. Cần phải có một hệ thống đấu giá minh bạch và nhanh chóng với các điều kiện về đất đai và giấy phép rõ ràng trước khi có thể xây dựng thêm nhiều nhà máy điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng là phải có một chính sách dài hạn cho ngành công nghiệp năng lượng và ô tô – xe máy. Quy hoạch Điện 8 cần được tích hợp để bao trùm các vấn đề liên quan tới truyền tải điện, giải quyết các mục tiêu về cường độ carbon, đặc biệt là các cam kết về trung hòa carbon của Việt Nam vào năm 2050, đồng thời, chỉ ra các công cụ pháp lý mới không thể thiếu để tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư lớn trong dài hạn.
Liên quan đến vấn đề vốn, bà Phạm Thị Thanh Tùng- Phó Vụ trưởng Vụ tín dụng các ngành kinh tế- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng: Để khơi thông dòng tín dụng cho các dự án thân thiện môi trường, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát để tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan. Cụ thể, cần làm rõ tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, trái phiếu xanh, làm cơ sở cho tổ chức tín dụng căn cứ lựa chọn dự án. Bên cạnh đó, xây dựng lộ trình, cơ chế chính sách (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển) của từng ngành, lĩnh vực đồng bộ để thu hút và phát huy tác dụng của nguồn lực tín dụng xanh.
Việc xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn sẽ đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của doanh nghiệp đầu tư dự án xanh, dự án NLTT. Riêng Bộ Công Thương cần sớm ban hành chính sách giá điện trong thời gian tới, đảm bảo nhất quán, minh bạch, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Đến hết 31/12/2021 dự nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh đạt hơn 441.000 tỷ đồng (chiếm 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế) tăng 32,5% so với năm 2020, đặc biệt dư nợ tín dụng cho các dự án NLTT đạt khoảng hơn 212 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 47% dự nợ cấp tín dụng xanh của toàn hệ thống.
Tại Diễn đàn, các đại biểu đã tập trung thảo luận các vấn đề như: cơ chế lựa chọn nhà đầu tư nguồn điện gió, điện mặt trời, điện khí; chính sách tài trợ vốn ưu đãi cho ngành năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo, công nghệ cao; chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong thu hút đầu tư vào năng lượng sạch; những thách thức mới trong phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam...
Trong khuôn khổ Diễn đàn, Ban Tổ chức cũng đã vinh danh “TOP 10 nhà đầu tư IPP (dự án điện độc lập) năng lượng sạch uy tín ở Việt Nam 2021” và “TOP 10 doanh nghiệp công nghệ, thiết bị, dịch vụ điện gió, mặt trời được đánh giá tốt nhất Việt Nam 2021”.
Theo Báo TNMT