Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và đưa vào một trong số các chỉ tiêu quan trọng: “Đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100% và nông thôn là 93-95%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%”... Để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường đi vào đời sống, ngoài sự cố gắng của ngành TN&MT, với tư cách là cơ quan tham mưu, quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các chỉ thị, nghị quyết về công tác bảo vệ môi trường. Qua đó, cả hệ thống chính trị vào cuộc.
Trồng cây xanh tại Công viên Chu Văn An, Hà Nội
Nước ta nằm ở vị trí địa lý chịu tác động rất lớn của hiện tượng biến đổi khí hậu và những diễn biến phức tạp do biến đổi khí hậu đã gây ra hạn hán, ngập úng hay nhiễm mặn ở một số vùng. Điều kiện nguồn thu ngân sách khó khăn nên chi đầu tư cho lĩnh vực môi trường rất hạn chế. Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra khá mạnh mẽ cũng góp phần làm gia tăng phát thải khí nhà kính, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học.
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến năm 2020, tỷ lệ dân số thành thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 90%, dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh ước đạt 96,0%, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn môi trường ước đạt 90%, tỷ lệ độ che phủ rừng đạt khoảng 42%. Tuy nhiên, khâu tổ chức thực hiện để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều chủ trương chính sách, xử lý kịp thời những vấn đề đặt ra. Năm 2004, ở Việt NamThủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 153/2004/QĐ TTg ngày 17/08/2004, “Ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự Agenta 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”.
Năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 đã đưa ra quan niệm về môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. Năm 2020, dự thảo Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung, trình Quốc hội.
Năm 2017, Thủ tướng chính phủ đã ký phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững của toàn cầu.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới trong lĩnh vực này.
Tiếp đến Đại hội XIII của Đảng, tháng 1 năm 2021, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với vấn đề môi trường trong bối cảnh mới như: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những mục tiêu cần thực hiện trong thời gian tới như: “Đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95% - 100%, và nông thôn là 93 – 95%,; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy hoạch quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường đat 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%”.
Nghị quyết XIII đưa ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030 đều có mục riêng về lĩnh vực tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, trong đó có nhiều nội dung mới. Đồng thời, nhiều nội dung mới về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu còn được nêu ở các nội dung khác có liên quan, như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công ngiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, kết cấu hạ tầng…
Phát triển các đô thị trung tâm - ĐBSCL tìm cách chung sống với biến đổi khí hậu
Về quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên: Đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý, sử dụng tài nguyên. Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất đai, nước, khoáng sản theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch và phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên khoáng sản, đất, nước, rừng, biển của đất nước...
Về bảo vệ môi trường: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát môi trường; nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường của mọi dự án, hoạt động kinh tế; ngăn ngừa, hạn chế tối đa những ô nhiễm môi trường mới phát sinh. Xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, nhất là những cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là ở các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải ở nông thôn. Kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên. Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải chi trả chi phí xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo, phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường...
Về ứng phó với biến đổi khí hậu: Nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ tác động, thích ứng với biến đổi khí hậu. Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, tránh, hạn chế, giảm thiểu tác động do biến đổi khí hậu gây ra. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, huy động sự tham gia của toàn dân vào công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, góp phần tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu, đi tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương.
Trong điều kiện mới hiện nay, nhất là từ cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 đã lan rộng sang phạm vi toàn cầu, tác động sâu rộng đến kinh tế, chính trị, thể chế và được xác định là thách thức lớn nhất của nhân loại sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay; đại dịch cũng được xác định liên quan đến vấn đề môi trường. Điều này cho thấy mục tiêu phát triển bền vững ở phạm vi toàn cầu, môi trường đang bị tổn thương. Trong bối cảnh chung như vậy, Việt Nam đang là điểm sáng nổi lên về phòng chống đại dịch Covid-19 và phát triển kinh tế xã hội. Năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9% là mức cao của khu vực và thế giới. Chính phủ chủ trương không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, Thủ tướng chính phủ đưa ra kế hoạch trồng 1 tỷ cây xanh từ nay đến năm 2025.
Thời gian tới cần tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức, có chiến lược, kế hoạch hành động cụ thể để khắc phục khó khăn, thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong bối cảnh mới.
Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường