Tin tức - Sự kiện

Phấn đấu trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng

11:00, 28/03/2021

Sáng 28/3, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng quy mô lớn nhất từ trước đến nay, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển KT-XH hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới (2021-2025).

 

1
Ảnh VGP)/Nhật Bắc

Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

Về tình hình đất nước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thế và lực lớn mạnh hơn nhiều, quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; có nhiều kinh nghiệm quý trong thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro; trình độ khoa học công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tăng trưởng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải đối mặt với thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả bền vững tài nguyên, đất đai và nguồn nước. Biến đổi khí hậu ngày càng nhanh, khốc liệt, khó lường; nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Đặc biệt, đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới, có thể tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược phát triển KT-XH đất nước.

Phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm

Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trong khó khăn thách thức, chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm.

Theo đó, cần đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng quy mô lớn, đẩy mạnh tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm.

Đồng thời phải phát huy mạnh mẽ vai trò của của các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu, thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, phát triển mạnh mẽ thị trường nội địa. Từng bước hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới.

Tập trung khắc phục hiệu quả tác động của đại dịch COVID-19, xây dựng các mô hình mới, tận dụng tốt các cơ hội chuyển dịch đầu tư khu vực và toàn cầu.

Thủ tướng nhấn mạnh, với niềm tin và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn dân tộc, Việt Nam cần nhanh chóng bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới, nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu sớm trở thành nước thu nhập trung bình cao…

5 quan điểm phát triển

Thứ nhất, phát triển nhanh và bền vững; dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phải đổi mới tư duy và hành cộng, chủ động nắm bắt cơ hội; phát triển hài hòa 3 trụ cột kinh tế - xã hội và môi trường.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, các sản phẩm dịch vụ, mô hình mới; côi trọng quản lý phát triển xã hội; phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế;..

Thứ ba, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng sức mạnh nội sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước;…

Thứ tư, xây dựng nền kinh tế tự chủ trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn lới ngoại lực và sức mạnh thời đại;..

Thứ năm, chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn…

Đảm bảo cao nhất lợi lịch quốc gia, dân tộc

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ 5 bài học kinh nghiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ nhất, bảo đảm mối tương quan hợp lý, hài hòa giữa tăng trưởng và ổn định; kiên trì ổn định vĩ mô, khắc phục nguy cơ tụt hậu; giải quyết các mối quan hệ trọng tâm về kinh tế.

Thứ hai, thực sự coi trọng phát triển văn hóa, xã hội và con người tương xứng với phát triển kinh tế; coi giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển.

Thứ ba, đảm bảo cao nhất lợi lịch quốc gia, dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế và các nguyên tắc cơ bản hợp tác, bình đằng, cùng có lợi; thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo với quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt; phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân.

Thứ tư, thực hiện tốt công tác dự báo, đánh giá và nhận định đúng, đầy đủ, kịp thời tình hình thế giới, khu vực để có những quyết sách, hành động nhanh chóng, quyết liệt, phù hợp.

Thứ năm, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng môi trường hòa bình, ổn định và nền kinh tế tự chủ, có khả năng thích ứng và chống chịu cao.

3 thành tố trọng tâm trong chủ đề chiến lược

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, chủ đề chiến lược phát triển đất nước trong thời gian tới là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thủ tướng nêu rõ, 3 thành tố trọng tâm trong chủ đề chiến lược gồm:

Thứ nhất, động lực và tinh thần quyết tâm: Khơi đậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại.

Thứ hai, cách thức và phương tiện chủ yếu là: Huy động mọi nguồn lực phát triển nhan và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số.

Thứ 3 về mục tiêu phấn đấu: Phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Những nội hàm mới trong các đột phá chiến lược

 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ những nội hàm mới trong các đột phá chiến lược.

Theo đó, đột phá thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nâng cao chất lượng thể chế, bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập (trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, thị trường khoa học, công nghệ).

Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.

Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất và phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành.

Đột phá thứ hai là, tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị, văn hóa, con người Việt Nam.

Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.

Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh (có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội).

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào đân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam.

Đột phá thứ ba là tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại.

Trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, tận dụng hiệu quả các cơ hội mới

Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tập trung xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm.

Xây dựng và thực hiện các giải pháp chính sách khắc phục tác động của dịch bệnh COVID-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, tận dụng hiệu quả các cơ hội mới.

Cơ cấu lại các ngành, kĩnh vực một cách thực chất để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh (thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh…)

Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.

Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.

Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng (chú trọng thu hút các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ cao, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả kinh tế).

Phấn đấu trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng

Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Bảo đảm am ninh lương thực; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu.

Phát triển công nghiệp kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu. Khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn.

Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại.

Ưu tiên chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực như y tế, giáo dục đào tạo, tài chính ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên môi trường, sản xsuaats công nghiệp.

Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số.

Phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới.

Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động

Về tổ chức thực hiện, Thủ tướng lưu ý các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương phải xây dựng chương trình, kết hoạch hành động cụ thể. Theo đó, Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ.  Từng cấp, từng ngành, từng địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể theo quy định trong phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ được giao.

Đồng thời phải tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, động bộ hiệu quả. Chú trọng tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, nút thắt với phương châm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, có kế hoạch cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện. Chú trọng xây dựng hệ thống thông tin, báo cáo, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và kịp thời. Quy định rõ trách nhiệm cụ thể đối với cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu.

Khi xuất hiện những vấn đề mới, báo cáo cấp có thẩm quyền trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định việc thực hiện thí điểm.

1
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển KT-XH hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới (2021-2025). Ảnh VGP/Nhật Bắc

* Diễn ra trong 2 ngày 27-28/3, Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được truyền trực tiếp từ điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội  tới 67 điểm cầu các Tỉnh ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Trung ương và được mở rộng đến hơn 7.300 điểm cầu cơ sở.

Lần đầu tiên gần 1 triệu đảng viên (chiếm gần 1/5 số đảng viên toàn quốc) được các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng trong vai trò báo cáo viên trực tiếp quán triệt những nội dung chính của Nghị quyết Đại hội XIII.

Trong ngày làm việc thứ 2 của Hội nghị (28/3), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu, quán triệt về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

Hai văn kiện này do Tiểu ban Kinh tế - Xã hội của Đại hội XIII khởi thảo cách đây hơn 2 năm, kể từ phiên họp đầu tiên của Tiểu ban vào tháng 11/2018, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Tiểu ban.

 

1
Ảnh VGP/Nhật Bắc

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 đã xác định đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác định cả tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước) trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD. Trong  5 năm tới (2021 – 2025), Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD.

Ba đột phá chiến lược được đặt ra là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể; phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại.

Theo Chinhphu.vn