Mặc dù thị trường các-bon trong nước chưa vận hành nhưng các hoạt động trao đổi tín chỉ các-bon từ Việt Nam ra quốc tế đã diễn ra sôi động. Chính vì vậy, doanh nghiệp và địa phương đang rất quan tâm đến cách thức phân bổ hạn ngạch phát thải, cũng như cách thức triển khai cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong thời gian tới.
Các cơ sở gây phát thải khí nhà kính (KNK) lớn như nhà máy nhiệt điện, sản xuất sắt, thép, xi măng... là những khách hàng tiềm năng bởi quy định áp trần hạn ngạch phát thải KNK.
Thị trường các-bon được coi là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhằm đạt mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK của Việt Nam. Ở phạm vi trong nước, Việt Nam đã xác định áp dụng hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải KNK (ETS) hay còn gọi là thị trường các-bon bắt buộc. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, hai loại hàng hóa của thị trường các-bon trong nước sẽ có hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ các-bon.
Bằng cách đặt một hạn mức về tổng lượng phát thải và cho phép các doanh nghiệp mua bán hạn ngạch phát thải, thị trường các-bon tạo ra các động lực kinh tế buộc doanh nghiệp tìm giải pháp giảm lượng phát thải KNK phù hợp với điều kiện của mình. Doanh nghiệp phát thải vượt hạn ngạch phải mua của bên thừa, cũng có thể mua tín chỉ các-bon để bù đắp nhưng không quá 10% hạn ngạch phát thải được phân bổ. Như vậy, sản xuất càng gây ô nhiễm thì chi phí phải trả càng lớn và tăng lên theo từng năm.
Để có hạn ngạch phát thải - loại hàng hóa quan trọng nhất trong thị trường các-bon bắt buộc, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải KNK cho các cơ sở cho giai đoạn 2026 - 2030 và hằng năm. Căn cứ trọng yếu để phân bổ hạn ngạch phát thải KNK chính là kết quả kiểm kê KNK của các cơ sở phát thải lớn theo danh mục mà Thủ tướng Chính phủ ban hành. Hiện nay, có 1.912 cơ sở thuộc danh mục được ban hành tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, đứng đầu là các nhà máy nhiệt điện than, khí, sản xuất xi măng, sắt thép trong công nghiệp xây dựng... Dự kiến trong năm 2024, khi danh mục này được cập nhật, số lượng doanh nghiệp chắc chắn sẽ tăng lên.
Về tín chỉ các-bon, đến nay, Việt Nam đã có gần 300 chương trình, dự án theo cơ chế chính thức của Liên hợp quốc cho đăng ký và triển khai tại Việt Nam, trong đó có khoảng 150 chương trình, dự án được cấp hơn 40,2 triệu tín chỉ các-bon và trao đổi trên thị trường các-bon thế giới. Năm 2023, ngành Lâm nghiệp đã thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng) khi thực hiện Thỏa thuận chi trả phát thải nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ với Ngân hàng Thế giới (WB).
Khi thị trường trong nước đi vào hoạt động, nhu cầu tín chỉ các-bon sẽ tăng lên và sẽ cần có thêm nguồn hàng hóa tín chỉ trong tương lai. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có thêm các quy định hướng dẫn cụ thể việc trao đổi, mua bán tín chỉ tại thị trường trong nước, cũng như quy định quản lý hoạt động trao đổi, mua bán tín chỉ các-bon ra quốc tế. Nguồn lợi từ thị trường quốc tế rất lớn và nhu cầu rất cao, nhưng Việt Nam vẫn phải ưu tiên thực hiện các mục tiêu giảm phát thải quốc gia đến năm 2030 và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Như vậy cũng đồng nghĩa với việc, những tín chỉ các-bon có chi phí sản xuất thấp sẽ cần được ưu tiên đưa vào thị trường trong nước để giữ lại kết quả giảm phát thải cho quốc gia
Năm 2023 có thể xem là một kỳ tập dượt quan trọng khi lần đầu tiên, vấn đề kiểm kê KNK, giảm nhẹ phát thải KNK được giao cụ thể trách nhiệm tới cấp cơ sở. Theo ông Lương Quang Huy - Trưởng phòng Giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT, trong quá trình triển khai, một số cơ sở đã chủ động liên hệ với cơ quan chuyên môn của Bộ để trao đổi về các nội dung, trách nhiệm cần thực hiện. Điều này cho thấy sự quan tâm và nhận thức của các cơ sở trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về giảm nhẹ phát thải KNK đã và đang được nâng cao.
Trong quá trình thực hiện công tác báo cáo, các cơ sở cũng đồng thời có cơ hội đánh giá lại hệ thống cơ sở dữ liệu của mình xem đã đáp ứng được các yêu cầu theo quy định hiện hành hay chưa để từ đó có những điều chỉnh, hoàn thiện thêm trong thời gian tới. "Nhìn chung, kiểm kê KNK là nội dung mới và phức tạp, đòi hỏi các cơ sở phải nghiên cứu kỹ các hướng dẫn để thực hiện. Thời gian qua, Bộ TN&MT bên cạnh hỗ trợ, tư vấn cho các cơ sở cũng đồng thời tiếp thu ý kiến phản hồi của các bên liên quan để tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách về giảm nhẹ phát thải" - ông Huy cho biết.
Để chuẩn bị tham gia thị trường các-bon, theo bà Đặng Thị Hồng Hạnh - Giám đốc Công ty tư vấn VNECC, quan trọng nhất là doanh nghiệp cần biết rõ lượng phát thải hiện tại của mình và cung cấp thông tin, số liệu chính xác nhất có thể cho cơ quan chức năng. Lịch sử phát thải và dấu chân các-bon chính là cơ sở để doanh nghiệp đề ra lộ trình giảm phát thải nhằm đáp ứng quy định của Nhà nước, đồng thời, hiểu tiềm năng giảm phát thải của mình để ra quyết định khi tham gia thị trường các-bon từ góc độ bên mua hay bên bán sẽ có lợi nhất. Những vấn đề này sẽ cần chuẩn bị cả về nhân sự, vật lực, tài chính.
Báo cáo kiểm kê của doanh nghiệp giúp chính quyền địa phương có bức tranh tổng thể về các nguồn phát thải KNK, hiện trạng và tiềm năng giảm phát thải, hấp thụ KNK trên địa bàn. Từ đó, ra quyết định đầu tư tăng cường năng lực và ban hành các chính sách thúc đẩy phù hợp. Sự tham gia của các địa phương rất quan trọng để có thị trường các-bon hoạt động hiệu quả trên toàn quốc, hướng đến mục tiêu chung là giảm phát thải KNK và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Để chủ động tham gia thị trường tín chỉ các-bon, nhiều doanh nghiệp tại TP.HCM đã đổi mới công nghệ sản xuất, mục tiêu giảm tối đa phát thải, hướng tới không phải mua tín chỉ các-bon khi có yêu cầu bắt buộc, đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư giải pháp tạo "nguồn hàng" tín chỉ các-bon, sẵn sàng giao dịch, tìm kiếm lợi nhuận.
Cuối tháng 9/2023, Công ty Sàn giao dịch Tín chỉ các-bon ASEAN CCTPA (Tập đoàn CT Group) được thành lập. Đơn vị này có chức năng đánh giá môi trường và khí thải các-bon, tính toán đo lường khí thải; báo cáo và xác nhận sau khi đo lường, tư vấn dự án các-bon, trình cơ quan chức năng chứng nhận hoặc tổ chức quản lý các-bon để xác nhận kết quả... Theo đại diện lãnh đạo ASEAN CCTPA, từ khi thành lập, đã có trên 10 doanh nghiệp FDI lớn, có lượng phát thải nhà kính cao, liên hệ để tìm kiếm nguồn tín chỉ các-bon trong ngắn hạn.
Ở góc độ nhà sản xuất, ông Nguyễn Thanh Quang - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Công nghiệp và Xuất nhập khẩu Đông Dương cho biết: Từ 2019, hệ thống lò hơi của nhà máy sấy hẻm bia của Công ty đã sử dụng nhiên liệu sinh khối như gỗ vụn, mùn cưa, trấu, vỏ điều..., thay vì sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu hỏa,...
Đặc biệt, Công ty đã đầu tư dự án "Thu hồi và sản xuất khí CO2 hóa lỏng từ lò hơi". Hệ thống này có tác dụng thu hồi CO2 từ khói thải lò hơi sinh khối để tuần hoàn sử dụng trong công nghiệp, góp phần giảm gần như triệt để lượng CO2 phát thải ra môi trường. Hệ thống này đang thu về 80 tấn CO2/ngày, dự kiến công suất sắp tới sẽ nâng lên 160 tấn/ngày. Hiện nay, doanh thu từ bán CO2 cho các doanh nghiệp có nhu cầu đóng góp đáng kể vào tổng doanh thu của Công ty.
Nhà máy tái chế nhựa Duy Tân với tiêu chí "3 không" trong quá trình sản xuất: không rác thải - không khí thải - không nước thải, tiềm năng tạo ra lượng tín chỉ các-bon để giao dịch trên thị trường |
Cũng theo ông Nguyễn Thanh Quang, Công ty hiện đang kết hợp với những doanh nghiệp có phát thải CO2 lớn để xây dựng các phương án giảm lượng thải ra. Tất cả đều có khả năng thu được tín chỉ các-bon và sẵn sàng giao dịch trên các sàn tín chỉ các-bon.
Ông Lê Anh - Giám đốc Phát triển bền vững Công ty Cổ phần Nhựa tái chế Duy Tân đánh giá: Hiện nay, chúng ta có tiềm năng lớn để xây dựng thị trường các-bon trong nước và cần nhìn nhận thị trường tín chỉ các-bon như một yếu tố chiến lược để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Duy Tân đang có những bước đầu tìm hiểu kỹ từ bộ, ban, ngành, các chuyên gia để có cái nhìn tổng quan hơn về việc tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon. Bước đầu cần tìm hiểu về khung pháp lý trong nước, việc xây dựng định mức phát thải tiêu chuẩn trên sản phẩm; giá tín chỉ,... Từ đó, có thể sử dụng nguồn lực tài chính và đổi mới công nghệ áp dụng cho việc tham gia vào thị trường các-bon trong tương lai.
Theo ông Lê Anh, để chủ động tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon, Công ty đang tiến hành thuê đơn vị đánh giá, kiểm định lượng phát thải các-bon của nhà máy tái chế nhựa. Hiện nay, Nhà máy tái chế nhựa của Công ty đang được vận hành theo tiêu chí "3 không" trong quá trình sản xuất: không rác thải - không khí thải - không nước thải. "Với công nghệ này, nhiều khả năng chúng tôi sẽ dư lượng tín chỉ các-bon để bán ra thị trường " - ông Lê Anh nói.
Ở góc độ cơ quan quản lý Nhà nước, ông Nguyễn Toàn Thắng - Giám đốc Sở TN&MT TP.HCM cho biết: Triển khai Nghị quyết 98/2023/QH15, Sở TN&MT hiện đang hoàn thiện Đề án thí điểm cơ chế tài chính thực hiện biện pháp giảm phát thải khí nhà kính theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon.
Đồng thời, Sở TN&MT cũng đang trong quá trình phối hợp với các Bộ: Công Thương, GTVT, NN&PTNT, TN&MT xác định tỷ lệ đóng góp về giảm phát thải/hấp thụ khí nhà kính trên địa bàn thành phố cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của quốc gia trước khi giao dịch tín chỉ các-bon.
Bên cạnh đó, Sở TN&MT đã đề xuất 6 tiêu chí lựa chọn các dự án sử dụng vốn ngân sách TP.HCM nhằm tạo ra tín chỉ các-bon, trong đó, đề xuất 2 dự án tiềm năng tạo ra tín chỉ các-bon là: dự án thay thế đèn đường LED và lắp đặt điện mặt trời trên mái nhà công sở. Theo tính toán, chỉ riêng đối với 2 dự án được lựa chọn thí điểm nêu trên, tổng lượng giảm phát thải CO2 trong 10 năm dự kiến gần 1 triệu tấn, nguồn thu chỉ riêng bán tín chỉ các-bon có thể đến 220 tỷ đồng - chưa tính phần tiết kiệm điện.
Cuối tháng 2/2024, Ban Quản lý đầu tư xây dựng hạ tầng đô thị TP.HCM đã trình UBND TP.HCM phương án đề xuất đầu tư "Dự án đô thị các-bon thấp tại TP.HCM trong các lĩnh vực ưu tiên" với tổng kinh phí 5.575 tỷ đồng. Dự án sẽ giúp thành phố tăng tốc đạt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ; góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách từ việc tạo, phát hành và bán tín chỉ các-bon chất lượng cao - tạo ra từ giảm phát thải của dự án trên thị trường tài chính các-bon quốc tế.
Cụ thể, Dự án sẽ gồm các hợp phần chính: Đầu tư nâng cấp, cải tạo hệ thống đèn LED và xây dựng hệ thống điện mặt trời, tiết kiệm năng lượng (170 triệu USD); Thiết lập và triển khai vận hành cơ chế tín chỉ các-bon (10 triệu USD); Thúc đẩy khối tư nhân đầu tư các giải pháp giảm phát thải thông qua tiếp cận thị trường các-bon quốc tế (40 triệu USD)...
Dự án kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp giảm phát thải thông qua việc TP.HCM sẽ chi trả khoản hỗ trợ tài chính khi các đơn vị này chuyển giao lượng giảm phát thải cho thành phố để giao dịch tín chỉ các-bon tạo ra nguồn thu từ thị trường các-bon quốc tế.
Với tỷ lệ che phủ rừng đạt 68,7%, đứng thứ 2 cả nước, Quảng Bình có tiềm năng rất lớn trong phát triển kinh tế rừng. Năm 2023, tỉnh Quảng Bình thu được hơn 82 tỷ đồng từ bán tín chỉ các-bon rừng. Trong đó, tỉnh dành 80 tỷ đồng chi trả cho các đối tượng hưởng lợi là chủ rừng, bao gồm hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng, tổ chức và UBND xã.
UBND tỉnh Quảng Bình mới đây đã phê duyệt đối tượng hưởng lợi từ thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA). Theo đó, căn cứ theo Nghị định của Chính phủ về việc thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải (bán tín chỉ các-bon) và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ, Bộ NN&PTNT đã chuyển nhượng 10,2 triệu tấn các-bon cho Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD) với giá khoảng 5 USD/tấn. Với mức giá này, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam nhận được 51,5 triệu USD từ Quỹ các-bon thông qua IBRD.
Sau khi trích khoảng 1,8 triệu USD tiền quản lý phí và các khoản chi hợp lệ khác, 49,698 triệu USD còn lại được Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam điều phối cho các tỉnh trong khu vực theo quy định. Riêng tỉnh Quảng Bình nhận chuyển nhượng hơn 2,4 triệu tấn các-bon và được chi trả khoảng 235 tỷ đồng trong giai đoạn 2023 - 2025. Riêng năm 2023, Quảng Bình được nhận 82,4 tỷ đồng, cao thứ hai trong 6 tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ.
Với độ che phủ đạt 68,7%, đứng thứ 2 cả nước, Quảng Bình có nhiều lợi thế trong việc bán tín chỉ các-bon rừng. Ảnh: Lý Hoàng |
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình cho biết, nguồn kinh phí 82,4 tỷ đồng từ việc bán tín chỉ các-bon sẽ được chi trả cho công tác quản lý, bảo vệ rừng và hỗ trợ phát triển sinh kế cho người dân gắn bó với rừng. Trong đó, 80 tỷ đồng được chi trả cho các đối tượng hưởng lợi là chủ rừng gồm hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng, tổ chức và UBND xã. 2,4 tỷ đồng được trích lại tại Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình. Theo thống kê, diện tích rừng tự nhiên được chi trả tại Quảng Bình là 469.317ha, bình quân số tiền chi trả trên đơn vị diện tích là khoảng 170.000 đồng/ha.
Được biết, tín chỉ các-bon rừng được tạo ra từ các hoạt động dự án giảm phát thải nhà kính như giảm mất rừng và suy thoái rừng. Tăng cường bể hấp thụ từ hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng, tái tạo thảm thực vật và hoạt động tăng cường quản lý rừng. Chủ rừng có thể tính toán diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ tương đương lượng hấp thụ khí CO2, quy đổi tín chỉ các-bon và có thể bán tín chỉ này tại thị trường các-bon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính.
UBND tỉnh Quảng Bình yêu cầu Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Bình phê duyệt kế hoạch tài chính ERPA (Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ) cho các đơn vị chủ rừng trực thuộc, chủ rừng là tổ chức kinh tế không do Nhà nước thành lập. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình thông báo số tiền chi trả cho chủ rừng là tổ chức, UBND cấp xã và tổ chức khác được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý rừng; đồng thời chịu trách nhiệm chi trả nguồn ERPA cho đối tượng hưởng lợi theo đúng quy định hiện hành.
Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Bình Mai Văn Minh cho biết, đây là khoản kinh phí lớn, góp phần nâng cao công tác quản lý, bảo vệ rừng và cải thiện đời sống người giữ rừng ở địa phương. Thời gian tới, tỉnh Quảng Bình sẽ xây dựng kế hoạch để khai thác tiềm năng và tận dụng thời cơ tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon rừng.
Theo báo cáo kết quả theo dõi diễn biến rừng tỉnh Quảng Bình năm 2023, tổng diện tích rừng và đất chưa có rừng của tỉnh hiện là 650.534,31ha, trong đó diện tích có rừng và rừng trồng chưa thành rừng 591.367,96ha; diện tích chưa có rừng là 59.166,35ha. Phân theo mục đích sử dụng, diện tích quy hoạch rừng đặc dụng là 144.310,85ha; diện tích quy hoạch rừng phòng hộ là 151.761,28ha; diện tích quy hoạch rừng sản xuất 318.086,65ha; diện tích ngoài quy hoạch 3 loại rừng 36.357,53ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2023 đạt 68,7%, đứng thứ 2 cả nước.
Với độ che phủ lớn, Quảng Bình có nhiều lợi thế trong việc bán tín chỉ các-bon rừng. Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình cho biết sẽ xây dựng kế hoạch tài chính năm 2024 và danh sách đối tượng được chi trả báo cáo Sở NN&PTNT trình UBND tỉnh phê duyệt. Quản lý, điều phối nguồn thu và chi trả cho các đối tượng theo đúng quy định. Tuy nhiên, theo lãnh đạo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình, kế hoạch chi trả giảm phát thải khí nhà kính là nội dung mới, thực hiện thí điểm, nên trong quá trình thực hiện còn một số vướng mắc do Nghị định số 107/2022/NĐ-CP ngày 28/12/2022 chưa quy định, hoặc quy định chưa rõ ràng.
Từ thực tế đó, ông Nguyễn Văn Long - Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Quảng Bình đề nghị Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam sớm tổ chức tập huấn, đào tạo hướng dẫn chuyên môn cho Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Quảng Bình, các tổ chức, cá nhân là chủ rừng. Công bố kết quả giảm phát thải hàng năm và kết quả giảm phát thải giai đoạn 2023 - 2025 của từng tỉnh. Đồng thời, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi một số quy định tại Nghị định số 107/2022/NĐ-CP của Chính phủ về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ phù hợp tình hình thực tế.
Theo Báo TNMT
Ý kiến bạn đọc