Tin mới

Bà đỡ pháp lý của Kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam (Phần 1)

16:35, 28/06/2023

Trong Luật BVMT 2020 đã dành riêng một điều khoản 142 để quy định về Kinh tế tuần hoàn (KTTH). Ngoài ra, Luật còn đưa ra nội dung khuyến khích đầu tư cho BVMT theo cách tiếp cận dựa vào thị trường: phân loại chất thải tại nguồn; quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất; kiểm toán môi trường,.. Tất cả những điều khoản và nội dung này chính là công cụ chính sách để thúc đẩy thực hiện KTTH, từ khai thác tài nguyên, chế biến, sản xuất, phân phối, tiêu dùng, thải bỏ và đưa chất thải thành tài nguyên.

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là gì?

Là nền kinh tế mới giúp thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính - chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến việc tạo ra một lượng phế thải khổng lồ sang mô hình chú trọng việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải - mô hình KTTH. Theo đó, trong KTTH giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu và tài nguyên được duy trì trong nền kinh tế càng lâu càng tốt và tạo ra ít chất thải nhất”.

Mỗi cá nhân có nhiều hình thức để tham gia vào nền KTTH như: từ chối sử dụng các sản phẩm gây hại cho môi trường; áp dụng các biện pháp sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tái chế; cộng sinh công nghiệp để đạt được mục tiêu giảm tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế tối đa lượng chất thải ra môi trường.

KTTH vận hành theo hệ thống, với đủ 5 khâu gồm: thiết kế, sản xuất, tiêu dùng, quản lý chất thải và chuyển chất thải thành tài nguyên, trong đó quản lý chất thải là trọng tâm. Lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội là những động lực chính để thúc đẩy áp dụng thực hiện KTTH theo các cấp độ (cấp quốc gia, cấp vùng, cấp doanh nghiệp hay cấp sản phẩm…) Việc áp dụng các biện pháp của KTTH vào quá trình quản trị ở các cấp; xây dựng dự án kinh doanh; thiết kế từng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, sẽ góp phần hình thành ra các mô hình kinh doanh mới theo hướng của KTTH.

KTTH đòi hỏi phải có tư duy hệ thống, cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ khu vực nhà nước ở trung ương và địa phương, doanh nghiệp khai thác khoáng sản và nguyên liệu thô, các nhà chế biến, sản xuất, phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, người thu gom rác... Tuy nhiên, khu vực công đóng vai trò quan trọng để kiến tạo và thúc đẩy hệ sinh thái tuần hoàn, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong áp dụng các biện pháp, phát triển các mô hình KTTH.

Việc thiết kế các quy định pháp luật thực hiện KTTH phải xem xét đầy đủ các yếu tố có vai trò thúc đẩy như: thể chế, chính sách; cơ sở hạ tầng; sự phát triển của khoa học và công nghệ, internet vạn vật; trách nhiệm xã hội, văn hóa, ý thức và hành vi... để hạn chế tối đa các rào cản. Văn hóa, tài chính và tầm nhìn là những vấn đề nổi cộm để thực hiện chuyển đổi sang nền KTTH. Cùng với đó, các quy định về KTTH cần tạo ra không gian để kích thích sự đổi mới, sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội; phát huy vai trò và đặc trưng riêng của từng ngành, lĩnh vực và địa phương để thực hiện KTTH.

Thực tiễn KTTH tại Việt Nam

Việt Nam chưa có những mô hình KTTH mang đầy đủ nội hàm, nhưng xét theo mục tiêu, nội dung thì đã có những mô hình hay phương thức kinh doanh mang những biểu hiện này khá sớm như: Trong nông lâm ngư nghiệp:  Mô hình VAC, mô hình VACR trong nông nghiệp…, hướng đến tận dụng Biomas…; mô hình thu gom phế phẩm nông nghiệp như thân các loại cây, rơm, vỏ trấu; mô hình bioaquatic trong nuôi trồng thủy sản.. Trong khai khoáng: Các hoạt động khai thác khoáng sản áp dụng tuần hoàn ngay trong quá trình vận hành mỗi công đoạn. Trong công nghiệp chế biến, chế tạo: Tuần hoàn nước, các nguyên vật liệu… trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã được áp dụng; sản xuất ra các sản phẩm thân thiện với môi trường; hoạt động của lĩnh vực sửa chữa điện, điện tử; các cửa hàng buôn bán đồ cũ … Trong cung cấp nước: Hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải; các đơn vị thu gom, phân loại, xử lý chất thải đóng vai trò là trung gian trong thúc đẩy tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải do các hoạt động kinh tế, dân sinh gây ra. Trên thực tiễn đã có nhiều mô hình đã và đang thực hiện theo hướng này như các mô hình xử lý chất thải nhựa; ủ, chế biến phân từ rác thải, phát triển năng lượng điện từ rác thải… Trong Xây dựng: Tận dụng, tái sử dụng, tái chế các loại chất thải trong quá trình xây dựng như đất đá, chất thải rắn từ vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vữa, bê tông, vật liệu kết dính quá hạn sử dụng được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng làm.

Vì vậy, những chính sách thích hợp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ, khuyến khích các sáng kiến, mô hình đã, đang và sẽ áp dụng các giải pháp thực hiện KTTH. Cùng với đó, để KTTH thực sự trở thành một xu hướng phổ biến đòi hỏi cần phải dựa trên tiếp cận hệ thống, với sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các bên. Đưa ra những quy định, xác định trách nhiệm của các các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong thực hiện KTTH.

KTTH trong Luật BVMT 2020

Tại khoản 11 Điều 5 của Luật BVMT năm 2020, chính sách của Nhà nước về BVMT khẳng định “Lồng ghép, thúc đẩy các mô hình KTTH, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển KT- XH”. Tiếp đó, tại Điều 142 của Luật có quy định riêng về KTTH. Theo đó, KTTH ở Việt Nam được xác định là “là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”.

Ngoài khái niệm về KTTH, Luật đưa ra trách nhiệm cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện lồng ghép KTTH ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển; quản lý, tái chế, tái sử dụng chất thải. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thiết lập hệ thống quản lý và thực hiện các biện pháp để giảm khai thác tài nguyên, giảm chất thải; nâng cao mức độ tái sử dụng và tái chế chất thải ngay từ giai đoạn xây dựng dự án, thiết kế sản phẩm đến giai đoạn sản xuất, phân phối.

Đặc biệt, Luật giao Chính phủ quy định tiêu chí, lộ trình, cơ chế khuyến khích thực hiện KTTH phù hợp với điều kiện KT - XH của đất nước. Đối chiếu với chính sách khuyến khích, quy định thúc đẩy KTTH tại các quốc gia điển hình như: Trung Quốc, Khối Liên minh châu Âu (bao gồm các quốc gia thành viên điển hình như Pháp, Hà Lan, Đức, Na Uy…) cho thấy, Việt Nam đã xây dựng được nền tảng chính sách, pháp lý khá đầy đủ. Kế hoạch triển khai KTTH theo các ngành, lĩnh vực, khu vực khác nhau cụ thể: phân loại chất thải tại nguồn; mua sắm công xanh (GPP); mở rộng trách nghiệm của nhà sản xuất (EPR); thúc đẩy các thị trường tái chế; các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ; phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, mua sắm xanh, tín dụng xanh, trái phiếu xanh....

Thực hiện: Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường


Ý kiến bạn đọc