Việc gia tăng dân số và phát triển kinh tế xã hội đưa đến nhu cầu sử dụng nước sạch trong thực tế tăng cao. Ở các vùng quê, nước sạch trở nên khan hiếm do Biến đổi khí hậu (BĐKH). Nước ngầm hạ thấp độ sâu, giếng không có nước hoặc nước bị nhiễm mặn. Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm nước mặt ở hầu hết các ao, hồ, sông, suối cùng khiến người dân chỉ còn biết trông chờ vào nguồn nước nước sạch, song việc đáp ứng nhu cầu này đang gặp nhiều khó khăn.
Nước sạch chưa đủ dùng
Theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp nghiệp Việt Nam, tại buổi tọa đàm Xã hội hóa đầu tư ngành nước, cơ hội và thách thức, cho biết: “Theo dự báo, mùa khô 2020-2021 cả nước có khoảng 82.000 hộ dân (tương đương khoảng 400.000 người dân) thiếu nước sinh hoạt. Trong khi đó tỉ lệ thất thoát, thất thu nước sạch ở mức 23%, chất lượng nước cũng còn nhiều điều phải bàn”.
Thực tế, nước sạch từ lâu được coi là sản phẩm thiết yếu, nhưng những đơn vị sản xuất và kinh doanh nước sạch được xem là độc quyền. Điều này dẫn đến việc ngành nước chậm đổi mới và áp dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh.
Trước đòi hỏi thực tế, những năm gần đây nhiều công ty nước sạch của nhà nước đã lần lượt được cổ phần hóa như: Công ty TNHH MTV nước sạch Hà Nội (Hawacom); Công ty TNHH MTV nước sạch Hà Đông; Công ty CP Đầu tư xây dựng và kinh doanh nước sạch (Viwaco)…Tuy nhiên, quá trình đầu tư, phát triển, cổ phần hóa các nhà máy nước cũng như cung cấp nước sạch, vẫn chưa đáp ứng được tình hình hiện tại.
Nhưng không thu hút được đầu tư
Theo Ông Nguyễn Quang Huân, đại diện Hội nước sạch và Môi trường Việt Nam: “Doanh nghiệp tư nhân gặp phải nhiều khó khăn khi đầu tư vào ngành nước từ Chính sách không đồng bộ, thiếu ổn định; thực hiện luật và chính sách không triệt để; không có chế tài xử lý các hành vi sai trái; không có quy hoạch chi tiết về tuân thủ quy hoạch; cơ chế kiểm tra, giám sát định kỳ; khó khăn tiếp cận vốn, tiếp cận công nghệ mới,… Do vậy, để tư nhân yên tâm tham gia đầu tư vào lĩnh vực nước sạch đô thị, các địa phương phải duy trì tính ổn định quy hoạch để không phá vỡ thị trường nước. Nhà đầu tư đã trúng thầu, đầu tư nhà máy nước thì địa phương bảo đảm quyền kinh doanh nước của họ”.
Quan điểm của Cục quản lý tài nguyên nước, hiện nay chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nguồn lực xã hội trong đầu tư công trình cấp nước và kinh doanh nước sạch đã có: Nghị định 11/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc sản xuất kinh doanh nước sạch. Luật đầu tư theo phương pháp đối tác công tư (PPP) có nói đến lĩnh vực nước sạch là lĩnh vực được ưu tiên. Chỉ thị số 34/CT-TTg của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý sản xuất kinh doanh nước sạch, (giao Bộ xây dựng chủ trì soạn thảo luật quản lý, sản xuất, kinh doanh nước sạch) dự kiến sẽ trình Quốc hội vào năm 2022.
Đặc biệt, Luật tài nguyên nước 2012 đã quy định, nước phục vụ mục đích sinh hoạt được ưu tiên hàng đầu và được ưu đãi về vốn để đầu tư những công trình cấp nước sinh hoạt và sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2015/NĐ-CP quy định ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả. Trong đó, đã quy định cụ thể các trường hợp được ưu đãi về vay vốn, miễn, giảm thuế đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả.
Luật Tài nguyên nước sắp tới sẽ tập trung sửa đổi theo hướng cụ thể hóa hơn: Ưu đãi sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả cho các mục đích sinh hoạt, sản xuất, đặc biệt sinh hoạt sản xuất có kinh tế cao; ưu đãi về sử dụng vốn, đất và hạ tầng của nhà nước để phục vụ sản xuất cấp nước. Đây là những định hướng lớn của Luật tài nguyên nước sửa đổi lần này. Luật cũng sẽ tập trung vào các quy định mới, phù hợp với Chính phủ số: thông tin số liệu điều tra cơ bản về nguồn nước; chất lượng nước hoặc các công trình, quản lý công trình theo hướng công khai minh bạch…
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục hoàn thiện các văn bản dưới Luật, cụ thể hóa hoạt động cung cấp và tiêu thụ nước sạch: Các quy chuẩn và tiêu chuẩn về chất lượng nước sạch cấp cho mục đích sinh hoạt; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển tài nguyên nước và các dịch vụ về nước theo phương thức xã hội hóa… Mặt khác, quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sở hữu công trình tài nguyên nước hoặc thực hiện các dịch vụ về nước. Rà soát lại các quy định liên quan đến cấp nước sinh hoạt cho người dân để điều chỉnh, bổ sung bảo đảm tuyệt đối an toàn và an ninh trong việc cung cấp nước sinh hoạt,…
Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường
Nước sạch chưa đủ dùng
Theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp nghiệp Việt Nam, tại buổi tọa đàm Xã hội hóa đầu tư ngành nước, cơ hội và thách thức, cho biết: “Theo dự báo, mùa khô 2020-2021 cả nước có khoảng 82.000 hộ dân (tương đương khoảng 400.000 người dân) thiếu nước sinh hoạt. Trong khi đó tỉ lệ thất thoát, thất thu nước sạch ở mức 23%, chất lượng nước cũng còn nhiều điều phải bàn”.
Thực tế, nước sạch từ lâu được coi là sản phẩm thiết yếu, nhưng những đơn vị sản xuất và kinh doanh nước sạch được xem là độc quyền. Điều này dẫn đến việc ngành nước chậm đổi mới và áp dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh.
Trước đòi hỏi thực tế, những năm gần đây nhiều công ty nước sạch của nhà nước đã lần lượt được cổ phần hóa như: Công ty TNHH MTV nước sạch Hà Nội (Hawacom); Công ty TNHH MTV nước sạch Hà Đông; Công ty CP Đầu tư xây dựng và kinh doanh nước sạch (Viwaco)…Tuy nhiên, quá trình đầu tư, phát triển, cổ phần hóa các nhà máy nước cũng như cung cấp nước sạch, vẫn chưa đáp ứng được tình hình hiện tại.
Nhưng không thu hút được đầu tư
Theo Ông Nguyễn Quang Huân, đại diện Hội nước sạch và Môi trường Việt Nam: “Doanh nghiệp tư nhân gặp phải nhiều khó khăn khi đầu tư vào ngành nước từ Chính sách không đồng bộ, thiếu ổn định; thực hiện luật và chính sách không triệt để; không có chế tài xử lý các hành vi sai trái; không có quy hoạch chi tiết về tuân thủ quy hoạch; cơ chế kiểm tra, giám sát định kỳ; khó khăn tiếp cận vốn, tiếp cận công nghệ mới,… Do vậy, để tư nhân yên tâm tham gia đầu tư vào lĩnh vực nước sạch đô thị, các địa phương phải duy trì tính ổn định quy hoạch để không phá vỡ thị trường nước. Nhà đầu tư đã trúng thầu, đầu tư nhà máy nước thì địa phương bảo đảm quyền kinh doanh nước của họ”.
Quan điểm của Cục quản lý tài nguyên nước, hiện nay chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nguồn lực xã hội trong đầu tư công trình cấp nước và kinh doanh nước sạch đã có: Nghị định 11/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc sản xuất kinh doanh nước sạch. Luật đầu tư theo phương pháp đối tác công tư (PPP) có nói đến lĩnh vực nước sạch là lĩnh vực được ưu tiên. Chỉ thị số 34/CT-TTg của Chính phủ về tăng cường công tác quản lý sản xuất kinh doanh nước sạch, (giao Bộ xây dựng chủ trì soạn thảo luật quản lý, sản xuất, kinh doanh nước sạch) dự kiến sẽ trình Quốc hội vào năm 2022.
Đặc biệt, Luật tài nguyên nước 2012 đã quy định, nước phục vụ mục đích sinh hoạt được ưu tiên hàng đầu và được ưu đãi về vốn để đầu tư những công trình cấp nước sinh hoạt và sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2015/NĐ-CP quy định ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả. Trong đó, đã quy định cụ thể các trường hợp được ưu đãi về vay vốn, miễn, giảm thuế đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả.
Luật Tài nguyên nước sắp tới sẽ tập trung sửa đổi theo hướng cụ thể hóa hơn: Ưu đãi sử dụng nước tiết kiệm hiệu quả cho các mục đích sinh hoạt, sản xuất, đặc biệt sinh hoạt sản xuất có kinh tế cao; ưu đãi về sử dụng vốn, đất và hạ tầng của nhà nước để phục vụ sản xuất cấp nước. Đây là những định hướng lớn của Luật tài nguyên nước sửa đổi lần này. Luật cũng sẽ tập trung vào các quy định mới, phù hợp với Chính phủ số: thông tin số liệu điều tra cơ bản về nguồn nước; chất lượng nước hoặc các công trình, quản lý công trình theo hướng công khai minh bạch…
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục hoàn thiện các văn bản dưới Luật, cụ thể hóa hoạt động cung cấp và tiêu thụ nước sạch: Các quy chuẩn và tiêu chuẩn về chất lượng nước sạch cấp cho mục đích sinh hoạt; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển tài nguyên nước và các dịch vụ về nước theo phương thức xã hội hóa… Mặt khác, quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sở hữu công trình tài nguyên nước hoặc thực hiện các dịch vụ về nước. Rà soát lại các quy định liên quan đến cấp nước sinh hoạt cho người dân để điều chỉnh, bổ sung bảo đảm tuyệt đối an toàn và an ninh trong việc cung cấp nước sinh hoạt,…
Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường